- Khái niệm và thực trạng
Tự sát gắn chặt với những vấn đề tâm lý, đặc biệt những dạng bệnh lý tâm thần. Không phải cá nhân nào cũng đủ sức mạnh để đi ngược lại với bản năng sinh tồn đặt trong mỗi cá thể. Có thể có nhiều người có ý định tự sát, nhưng những người tự sát thực sự chỉ là một phần nhỏ trong số đó. Xã hội hiện đại không còn lạ lẫm với những vụ tự sát bằng cách nhảy từ trên cao xuống, hay cố tình sử dụng thuốc quá liều, hoặc tự sát bằng súng, treo cổ… Lý thuyết Phân tâm học cho rằng trong mỗi cá nhân tồn tại hai dạng xung năng: xung năng sống và xung năng chết. Xung năng sống là những nguồn lực duy trì, bảo tồn, mang lại sự sống, Xung năng chết là sự phá hủy ở mỗi người. Khi thực tại bên trong hay bên ngoài quá khốc liệt khiến một người không thể chịu đựng được, người đó có xu hướng phá hủy cơ thể của mình. Cơ thể như một thứ hữu hình nhất để con người có thể đặt trên đó những cảm xúc, hành vi tự hủy. Những trường hợp nhẹ hơn có thể tự làm hại cơ thể bằng những vết cắt hay tổn thương nhẹ. Những trường hợp nặng có thể khiến cá nhân phải nhập viện và nhiều trường hợp mất mạng sống vì hành vi tự hủy của mình.
Định nghĩa tự sát được biết đến rộng rãi ở hầu hết mọi người, đó là một khái niệm phổ biến. Tự sát là những hành vi cố ý tự giết bản thân, dù hành vi có thành công hay không, bất kể hành vi tự giết bản thân nào cũng được quy là tự sát.
Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới WHO, mỗi năm có khoảng 730 000 vụ tự sát và có rất nhiều người cố gắng tự sát. Mọi hành vi tự sát đều là những bi kịch đối với gia đình nạn nhân, cộng đồng và quốc gia, hành vi tự sát ảnh hưởng rất lâu dài đối với những người ở lại. Tự sát có thể diễn ra ở bất kì giai đoạn nào trong cuộc sống, và là nguyên nhân đứng thứ 4 trong những nguyên nhân dẫn tới cái chết của giới trẻ trong độ tuổi 15 – 29 trên toàn thế giới (2019). Tự sát không chỉ diễn ra ở các nước có mức thu nhập cao, nhưng đó là một hiện tượng toàn cầu. Có đến 77% số vụ tự sát xảy ra ở các nước có mức thu nhập trung bình và thấp.
2. Những nguyên nhân dẫn đến tự sát
Nguyên nhân từ những bệnh lý tâm lý
Những người có vấn đề về sức khỏe tâm thần có nguy cơ cao đối với vấn đề tự sát. Để có thể sinh tồn trong xã hội hiện đại, buộc một người phải chịu rất nhiều áp lực từ nhiều phía: từ việc bươn chải kiếm tiền, đến những áp lực về trách nhiệm của bản thân với gia đình, công việc con cái. Cuộc sống của mỗi người không phải lúc nào cũng suôn sẻ, luôn có những sự kiện tiềm ẩn gây ra những cơn stress có thể phá hủy một người. Thông thường những cơn stress xuất phát từ các mối quan hệ giữa người với người, nhiều dạng sang chấn xuất phát từ gia đình, các mối quan hệ hôn nhân, vợ chồng, bạn bè. Quá nhiều vấn đề trong cuộc sống mỗi người, đòi hỏi họ phải xây một bức tường kiên cố để bảo vệ chính mình khỏi những nguy hại từ thế giới xung quanh. Tuy nhiên, những người có vấn đề tâm lý không có bức tường kiên cố như vậy, họ đã bị phá hủy từ chính bên trong.
Trầm cảm và nguy cơ tự sát
Trầm cảm là một trong những nguyên nhân lớn dẫn tới vấn đề tự sát. Trầm cảm là một dạng rối loạn tâm thần đặc trưng bởi mất một phần hay hoàn toàn ý lực sống. Người trầm cảm nhìn cuộc sống chỉ một màu tối, họ không thấy bản thân mình có giá trị, họ thấy cuộc sống vô nghĩa, cơ thể mệt mỏi và ít thấy niềm vui. Vì thế những người bị trầm cảm nặng có nguy cơ tự sát rất cao. Không phải người bệnh trầm cảm nào cũng có nguy cơ tự sát và không phải những người bị trầm cảm nặng nào nguy cơ tự sát cũng luôn thường trực, không ngớt. Những cơn trầm cảm mang cường độ mạnh chỉ đến theo cơn trận, có những trường hợp, cơn trầm cảm nặng diễn ra hàng ngày, quãng thời gian nghỉ giữa các cơn là khá ngắn. Có những trường hợp, cơn trầm cảm nặng chỉ thỉnh thoảng mới diễn ra, cách độ mấy tuần hoặc theo tháng. Dù thế nào, khi ở trong những cơn trầm cảm nặng, trầm trọng, não bộ của con người dường như kiệt sức, họ cảm thấy tuyệt vọng, cuộc sống đối với họ như một địa ngục. Không một nơi nào có thể mang lại cho họ sự yên bình và ý chí chống lại cái chết, họ buông xuôi và nhiều trường hợp đã cố thử tự sát hàng chục lần. Sau rất nhiều lần do dự, có thể một ngày nào đó họ sẽ bị khuất phục trước ý muốn tự sát của mình. Lúc đó, mọi chuyện trở nên vô cùng tệ hại đối với những người thân thiết của nạn nhân.
Một số trường hợp không có hành vi tự sát khi họ không phải đối mặt với những sự kiện gây sang chấn bên ngoài. Người trầm cảm không còn cơ chế để bảo vệ cái tôi của họ, cái tôi bị phân rã khi gặp những sự kiện nguy cơ. Những trường hợp khác có lẽ đặc biệt hơn, đó là những trường hợp trầm cảm không hề gặp một sự kiện nguy cơ bên ngoài nào, những diễn tiến dẫn đến hành vi tự sát hoàn toàn diễn ra bên trong tâm trí họ. Đó là một loạt những cảm xúc tiến triển kéo theo đến mức trầm trọng, họ không còn ý lực sống, họ sẽ tự sát trong cơn trầm cảm ấy.
Những nguy cơ tự sát từ rối loạn stress hậu sang chấn
Rối loạn stress hậu sang chấn là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn tới tình trạng tự sát. Trong những năm gần đây, rất nhiều những nghiên cứu tiến hành đối với nhóm người bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, bao gồm nhóm trực tiếp tham gia chiến đấu và những người là nạn nhân của các cuộc chiến. Rất nhiều cựu chiến binh tự sát vì mặc cảm tội lỗi, những hành dộng họ đã thực hiện khi chiến tranh diễn ra. Có nhiều chính sách hỗ trợ, phúc lợi xã hội dành cho cựu chiến binh nhưng có lẽ họ không thể chịu đựng được những sang chấn trước đây đã trải qua.
Những người trong cuộc sống bình thường cũng trải qua rất nhiều dạng sang chấn khác nhau và phần đông chúng ta phải hứng chịu những cơn stress, mọi người đều phải nỗ lực vượt qua. Có những cá nhân chịu sự lạm dụng tình dục từ nhỏ, cả cuộc đời họ bị ám ảnh bởi những hành vi lạm dụng người khác gây ra cho mình. Đôi khi những cá nhân bị lạm dụng tình dục tự hỏi họ đã gây ra những lỗi lầm gì để phải hứng chịu những sự việc như thế. Những sang chấn ấu thơ do bị lạm dụng gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Trước đây người ta chưa ý thức được những hành vi lạm dụng trẻ em do sự thiếu hiểu biết. Ngày nay, những hành vi có thể xem như bình thường trong những giai đoạn trước lại được xem như những hành vi lạm dụng tình dục. Cùng với sự phát triển của truyền thông, những sự vụ lạm dụng tình dục bị phơi bày ra, bộc lộ những góc khuất, những mặt đen tối của xã hội. Những người bị lạm dụng tình dục rất nhạy cảm, khi họ đã trải qua những cơn sang chấn khủng khiếp, họ có thể bị tổn thương bởi những lời nói, hành vi dù không cố ý của người khác. Nguy cơ các cảm xúc do những cơn sang chấn trước đây tác động lại họ có thể bộc phát kết thúc cuộc sống của mình vì cuộc sống đối với họ là những điều đe dọa trên sinh tồn, một cuộc sống bị dày vò bởi những nỗi đau không thể xóa nhòa.
Những sang chấn khác có liên quan đến lượng đầu tư tinh thần của cá nhân vào một đối tượng nào đó. Khi đối tượng mất đi, nguy cơ tự sát là vô cùng cao. Ví dụ một người đầu tư hết tiền bạc, tài sản vào một kế hoạch, kế hoạch đó thất bại, người đó không còn gì cả. Anh ta rơi vào trạng thái tuyệt vọng khi nỗ lực cả đời đã tiêu tan, nguy cơ tự sát trong những trường hợp này là rất cao. Nhiều người chơi chứng khoán có thể mất trắng trong một đêm và những sự vụ tự sát của những cá nhân này không phải là hiếm gặp, thậm chí đã trở thành chuyện thường trong giới đầu tư. Có những trường hợp mất người thân, người yêu, cá nhân ở lại không còn ý nghĩa, mục đích sống. Năng lượng tinh thần họ dành cho người đã mất kia là rất lớn. Đó cũng là một nguy cơ gây ra các vấn đề tự sát.
Còn nhiều yếu tố tâm bệnh có thể gây ra vấn đề tự sát như loạn thần, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, rối loạn lo âu… Tóm lại, tâm bệnh là một nguyên nhân lớn gây ra vấn đề tự sát.
Tự sát từ những khủng hoảng ý nghĩa cuộc sống
Trong thời chiến, hay trong những thời kì khó khăn không đảm bảo các nhu cầu sinh tồn như nạn đói, dịch bệnh… tất cả mọi người đều có mục đích nhằm vượt qua những khó khăn của các giai đoạn ấy, người ta cảm thấy cuộc sống của họ có ý nghĩa. Một lý tưởng sống, ý nghĩa sống là một điều vô cùng quan trọng để giữ một người tồn tại. Xưa kia, tôn giáo làm rất tốt nhiệm vụ này, cái thời tôn giáo còn thống trị trên toàn thế giới. Hiện giờ, tôn giáo dường như tồn tại như một lý thuyết, một điểm tựa trong vô vàn điểm tựa khác. Từ những điều đó, niềm tin, ý nghĩa cuộc sống đang bị lung lay dữ dội. Thế giới hiện đại là một thế giới đa nguyên, không còn mục đích, ý nghĩa nào dành chung cho tất cả mọi người. Không còn khát vọng chinh phục hay giành lại sự tự do nơi thời chiến, không còn vị thần tuyệt đối dành cho tất cả mọi người. Thay vào đó là những góc nhìn đa dạng: những thôi thúc sống vì đồng tiền, những ý nghĩa sống vì gia đình, lối sống hưởng thụ, sống vì kì vọng của người khác, sống vì môi trường, sống vì bản thân…thống trị. Nhiều bạn trẻ loay hoay không biết ý nghĩa cuộc sống của mình là gì vì lớp trẻ hiểu biết hơn, tự do hơn. Họ rất khó để tin hoàn toàn tuyệt đối vào một lý thuyết vững chãi nào đó, thế là họ bị chơi vơi. Một số nhà triết học hiện sinh đặt nền tảng cho tư tưởng hiện đại tuyên bố rằng: Không có ý nghĩa chung cho cuộc sống, mỗi người phải tự tạo ý nghĩa cho chính mình. Cuộc sống không tự tạo lập ý nghĩa sẽ trở nên vô nghĩa. Nhưng họ chưa dạy phải tạo ra ý nghĩa cá nhân như thế nào. Nhiều bạn trẻ coi cuộc sống như một trò chơi, cái chết chỉ như một lựa chọn trong đời. Cơ thể, thân xác là sở hữu riêng của họ và họ có quyền kết thúc nó hay không.
Khủng hoảng ý nghĩa cuộc sống là một trong những nguyên nhân lớn dẫn tới tự sát của rất nhiều bạn trẻ. Khi cuộc sống của họ không còn ý nghĩa, họ mất nền tảng ban đầu, mất ý chí sống. Đến lúc họ gặp khó khăn, đau khổ, họ tự hỏi rằng tại sao sống thôi cũng là một điều quá mệt mỏi, liệu những đau khổ này mang lại cho họ điều gì? Chết là hết và không còn điều gì đảm bảo. Vì thế họ chấm dứt nỗi đau, chấm dứt cơn thống khổ của cuộc đời mà bỏ qua những ý nghĩa khác, bỏ qua nhiều người khác quan tâm đến cuộc sống của họ. Đối với thời hiện đại, cái chết chính là một sự lựa chọn.
3. Những giải pháp đối với vấn đề tự sát
Quan tâm đặc biệt đến những nhóm người có nguy cơ tự sát
Như đã phân tích, những nhóm người bị các vấn đề tâm bệnh có nguy cơ tự sát rất cao. Đối với những nhà chuyên môn sức khỏe tâm thần, nên thận trọng và chú ý đến những trường hợp bệnh nhân có nguy cơ tự sát cao. Hành vi tự sát có thể diễn ra bất kì trong giai đoạn nào tùy theo những sự kiện bệnh nhân gặp phải, những cảm xúc bệnh nhân có, làm việc với những người có nguy cơ tự sát là một thách thức với bất kì nhà chuyên môn trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần nào. Đối với người nhà những bệnh, không thể coi thường ý định tự sát của con cái. Nhiều gia đình ở Việt Nam chưa nhận thức được hết những nguy cơ tự sát của con cái họ do sự thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về tâm bệnh. Một số trường hợp không may diễn ra, lúc ấy, gia đình mới cảnh tỉnh sự nghiêm trọng khi con mình mắc phải các vấn đề tâm lý.
Trước khi tự sát, bệnh nhân thường biểu hiện rất nhiều dấu hiệu bất thường, những hành vi báo chỉ là những phản ứng vô thức nhằm duy trì bản năng sinh tồn. Có thể bệnh nhân sẽ có những hành vi, thói quen khác so với trước đây. Họ có thể bỗng dưng sôi nổi lạ thường, giao tiếp với mọi người trong khi trước đây họ là người luôn sống khép kín. Những bệnh nhân có thể thu mình lại, tránh xa mọi người, không giao tiếp với bất kì một ai, hoặc bệnh nhân nói những câu kì lạ, những hành vi lạ thường. Người nhà hay những nhà chuyên môn phải quan sát, để ý rất kĩ những dấu hiệu bất thường này.
Giải quyết các vấn đề tâm lý cá nhân của những người có nguy cơ tự sát
Đa phần những người có nguy cơ tự sát mắc các vấn đề tâm lý, trừ những người tự sát vì những lý tưởng của tôn giáo hoặc theo một chủ nghĩa nào đó. Các vấn đề tâm lý chưa được giải quyết là những nguyên nhân dẫn tới hành vi tự sát. Có những vấn đề đối với mọi người là không đáng kể nhưng đối với những các nhận bị rối nhiễu tâm lý, đó là những điều quá sức chịu đựng. Nên đưa những người có vấn đề về tâm lý đến các nhà chuyên môn để nhận được sự trợ giúp kịp thời, tránh những nguy cơ về sau. Gia đình cũng nên trang bị những kiến thức cơ bản về tâm lý để nhận biết các vấn đề tâm bệnh. Trong thời hiện đại, các vấn đề tâm bệnh càng ngày càng đa dạng, với những triệu chứng mới. Rối nhiễu tâm lý là những dấu hiệu bộc lộ tình trạng mất cân bằng của xã hội ảnh hưởng lên mỗi cá nhân, đôi khi, bản thân cá nhân cũng không thể ngăn ngừa hết được.
Xây dựng một nền tảng tâm lý tốt cho mỗi cá nhân
Cuộc sống luôn rình rập những nguy cơ dẫn đến stress, các sự kiện gây sang chấn đòi hỏi cá nhân phải có một nền tảng tâm lý vững mạnh để có thể vượt qua được những khó khăn cá nhân. Nền tảng tâm lý tốt giống như một người có cơ thể khỏe mạnh chống lại được những tác nhân gây bệnh. Khi cơ thể yếu, con người dễ gặp phải các vấn đề đau yếu, tâm lý cũng như một cơ thể có thể bị tổn thương bất kì lúc nào. Để có một nền tảng tâm lý tốt, gia đình mỗi cá nhân phải mang bầu khí tâm lý ấm áp, bình yên, gia đình chính là nơi định hình tâm lý mỗi con người, là nơi xây dựng những lớp phòng thủ giúp cá nhân có thể đương đầu với rất nhiều vấn đề trong cuộc sống. Kết cấu gia đình hiện đại có vẻ lỏng lẻo hơn các thế hệ trước bởi chủ nghĩa cá nhân ngày một tăng lên, mỗi thành viên phải cân bằng giữa cá nhân và trách nhiệm gia đình. Tuy nhiên, phải đặc biệt chú ý đến những tác động của gia đình đến sự phát triển tâm lý của từng cá nhân, vì những sự kiện trong gia đình có thể gây ra hành vi tự sát. Cũng nên xây dựng những chương trình sức khỏe tâm lý cộng đồng để cung cấp các kiến thức về vấn đề tự sát và phòng tránh những hành vi tự sát.
Liên kết những người có nguy cơ tự sát với gia đình, cộng đồng
Những người có nguy cơ tự sát như những người ốm bệnh cơ thể, cần phải có sự chăm sóc từ những người xung quanh. Khi một mình phải chống chọi với các cơ khủng hoảng bên trong nội tâm cũng như các sự kiện gây sang chấn bên ngoài, một mình cá nhân không thể chống chịu được. Khi liên kết với gia đình, cộng đồng, các nhà chuyên môn, nếu tiếp cận đúng cách, cá nhân có thể được tiếp thêm những nguồn lực sống để giải quyết vấn đề cá nhân của mình, đủ sức chống lại những vấn đề đang gây tổn hại tới cá nhân. Gia đình, cộng đồng là yếu tố vô cùng quan trọng để giảm thiểu, ngăn ngừa vấn đề tự sát.